Bà lão nghèo nhận nuôi đứa trẻ bị b: ỏ r: ơi, ai cũng nói bà rảnh hơi – nhưng 20 năm sau, không ai hạnh phúc bằng bà…

Buổi sáng chợ huyện, sương còn đọng ướt trên mái lá, bà Tư lom khom đẩy xe ve chai đi ngang qua khu chợ lớn. Đôi chân bà chai sạn vì nhiều năm đi bộ, đôi tay gầy nhăn nheo kéo lê bao tải nặng trĩu. Bà không còn ai thân thích, sống một mình trong căn chòi dột nát ven rạch, ngày ngày nhặt nhạnh từng món đồ bỏ đi để đổi gạo sống qua bữa.

Hôm đó, ở góc chợ, bà nghe tiếng khóc oe oe khe khẽ. Một đứa bé sơ sinh, đỏ hỏn, được đặt trong chiếc thau nhôm cũ, bên cạnh là tờ giấy nhàu nát: “Xin ai có lòng thương cưu mang cháu.”

Bà lặng người. Đôi mắt mờ đục chậm rãi dừng lại nơi sinh linh nhỏ bé ấy. Không ai đứng gần. Người ta đi qua, lắc đầu, buông vài câu ngán ngẩm:
— Thời buổi này nuôi thân còn chưa xong, ai dám nhận thêm cái nghiệp nặng như núi…

Nhưng bà Tư thì khác. Bà nhấc đứa bé lên bằng cả hai tay run rẩy. Nó nắm lấy ngón tay bà, khẽ co lại. Tim bà đau nhói mà ấm lên lạ lùng.

 

“Con không có ai. Mà bà… cũng chẳng còn ai. Hay mình về với nhau, hén con.”

Từ đó, căn chòi nhỏ có thêm tiếng khóc trẻ sơ sinh, có ánh đèn dầu leo lét suốt đêm, và có một người mẹ già sớm khuya chắt chiu từng giọt sữa, từng muỗng cháo, nuôi đứa bé lớn lên bằng tất cả những gì bà có.

Xóm nghèo chê bà gàn. Có người còn nói thẳng:

— Bà nuôi nó rồi nó lớn, bỏ bà đi theo đời. Không máu mủ ruột rà, rước khổ vào người.

Bà chỉ cười, ánh mắt xa xăm:

“Ừ thì có thể vậy. Nhưng giờ, bà có tiếng trẻ gọi ‘mẹ’. Đời bà chưa từng có được điều đó.”

Đứa trẻ được bà đặt tên là Hưng – nghĩa là hy vọng. Nó lớn lên bằng cơm chan nước lã, áo vá áo chắp, nhưng được bà dạy lễ nghĩa, thương người, và học hành đến nơi đến chốn.

Mỗi đêm, bà nhặt ve chai đến tận khuya, về vẫn tranh thủ giặt bộ đồng phục cho Hưng. Đứa bé thấy vậy, càng thương mẹ, càng cố học giỏi. Nó luôn đứng đầu lớp, rồi thi đậu vào trường Y với học bổng toàn phần.

Ngày cầm tấm giấy báo đậu đại học, Hưng ôm bà khóc như mưa. Bà chỉ cười, dúi cho nó 200 ngàn gấp tư – cả gia tài của bà lúc đó – dặn:

“Đi học cho nên người, mẹ không cần gì hết. Chỉ cần mai này con sống tử tế là được.”

20 năm sau.

Căn chòi dột nát ngày nào giờ là một ngôi nhà nhỏ khang trang. Ngày Hưng trở về sau chuyến thực tập nước ngoài, cả xóm tụ lại trước nhà bà Tư để xem… bác sĩ Hưng đón mẹ lên thành phố.

Anh bước xuống từ xe, mặc chiếc áo blouse trắng, trên tay là bó hoa lớn. Anh quỳ xuống trước bà:

“Mẹ ơi, con đã trưởng thành. Từ hôm nay, mẹ để con chăm sóc mẹ nhé.”

Người ta nhìn thấy đôi mắt già nua ươn ướt nhưng rạng rỡ hơn bao giờ hết. Bà không cần ai thừa nhận mình đúng. Hạnh phúc của bà – giờ đây – là một người con sống có hiếu, có tình, có nghĩa.

Và bà biết: tình mẫu tử không cần cùng huyết thống – chỉ cần thật lòng yêu thương. 

Chia sẻ bài viết:

Theo Tạp chí Sở hữu trí tuệ Copy link

Link bài gốc

Copy Link
https://sohuutritue.net.vn/ba-lao-ngheo-nhan-nuoi-dua-tre-bi-b-o-r-oi-ai-cung-noi-ba-ranh-hoi-nhung-20-nam-sau-khong-ai-hanh-phuc-bang-ba-d284150.html